QUỲNH HOA TAM NƯƠNG TỬ
Đêm càng về khuya, trăng càng lạnh, sao càng thưa.
Nơi phương đông, màu trời dần dần trắng.
Du Bội Ngọc vẫn còn đi tới đi lui bên ngoài trời, đi như kẻ điên dại, đi không hồn, không tư tưởng.
Chàng đi tới đi lui mãi, bất giác đêm sắp tàn, ngày sắp về mà chàng chẳng hay biết.
Sương rơi lúc đêm tàn phải nặng hạt, sương làm rơi rụng những chiếc lá vàng còn luyến tiếc cành cây chưa vội buông mình, lá rụng mang theo sương lạnh, lá và sương rơi trên mình chàng, gieo cái lạnh cuối cùng trên thân xác chàng trước khi thái dương về sưởi ấm lại.
Đột nhiên một bóng người từ xa chạy đến, bóng đó nhỏ ốm, tóc bạc trắng, gương mặt điểm xuyết một nụ cười bí hiểm.
Người đó không lạ gì đối với Du Bội Ngọc, song điều làm chàng kinh ngạc là sự hiện diện của người đó tại đây, trong phút giây này.
Lão ta cầm trong tay một bức họa đồ, lão đưa bức họa đồ ra trước mặt Du Bội Ngọc, cười mấy tiếng rồi hỏi :
- Ngươi xem đi, xem rồi cho ta biết là ngươi có hiểu ta vẽ những gì hay chăng?
Bức họa phô bày những nét vẽ hỗn độn, núi chẳng ra núi, mây chẳng ra mây, nhìn kỹ một chút lại thấy như một lọ mực đổ lên giấy, chỗ đậm, chỗ lợt, chỗ ngắn, chỗ dài, những đường thẳng, gãy, tròn, những đốm tạo thành một bức họa danh, bởi nó chẳng tượng trưng cái gì cả.
Du Bội Ngọc lắc đầu :
- Chịu thôi! Chẳng làm sao nhận nổi hình gì với hình gì!
Lão nhân thốt :
- Bức họa này ghi nhận hình núi phía trước mặt ngươi đó. Ta không hiểu tại sao ngươi không nhận ra!
Du Bội Ngọc nhìn ra trước mắt, qua màn sương mờ mờ, rồi nhìn trở lại bức họa, chàng mường tượng thấy có chỗ giống nhau, vụt cười lên một tiếng :
- Giờ thì thấy rồi!
Lão nhân bỗng bật cười cuồng dại.
Du Bội Ngọc nhìn lão, thấy lão cười bằng thích , cười múa tay động chân, người ngửa nghiêng mình, mắt cũng cười, mũi cũng cười.
Toàn thân lão, lúc cười, bốc lên một vẻ ngụy dị, kỳ bí vô tưởng.
Chàng lấy làm lạ hỏi :
- Cười chi mà tợn thế?
Lão nhân vỗ tay reo lên :
- Ta cười vì ta vui! Ta cười vì ta thành công!
Du Bội Ngọc lấy làm lạ :
- Lão trượng thành công về việc gì?
Lão nhân tiếp :
- Ta được một siêu phẩm! Bức họa này là một siêu phẩm của ta!
Du Bội Ngọc nhìn xuống bức họa, nhếch miệng cười khổ :
- Một bức họa như thế này, lão trượng cho là một siêu phẩm?
Lão nhân gật đầu :
- Ý ta muốn vẽ ra núi, nhưng ta không vẽ thành núi, ta không vẽ thành núi mà người vẫn nhìn ra núi, như vậy là tài tình lắm rồi, bởi ta không vẽ nên hình, vẽ nên hình thức rõ ràng là một việc dễ làm! Bất cứ một họa sĩ nào cũng vẽ được. Ta không vẽ núi, ta chỉ vẽ nên hồn núi. Trên thế gian này, có ai vẽ được cái hồn của sự vật không? Ta vẽ được cái hồn của núi là bức họa của ta phải là một siêu phẩm rồi!
Du Bội Ngọc lẩm nhẩm :
- Chỉ sợ cái hồn núi trong bức họa này rất ít người trông thấy được!
Lão nhân lại vỗ tay :
- Cần gì có kẻ thấy được? Cần gì có kẻ hiểu được? Ta muốn vẽ núi, dù cái hình của ta vẽ ra không phải là núi, song con mắt ta thấy như núi, cái tâm ta tưởng như núi, ta hiểu, mà người khác không hiểu nổi như ta, thế là tuyệt lắm rồi! Tuyệt diệu lắm rồi!
Lão lại cười vang, cười rồi vỗ tay, vỗ tay rồi cười. Lão càng cao hứng, Du Bội Ngọc càng sững sờ. Lão bỏ đi luôn.
Chàng như nghe Du Phóng Hạc thốt văng vẳng bên tai dù lời nói của Du Phóng Hạc đã qua lâu, lâu lắm rồi :
- Kiếm pháp mà quá câu chấp về hình thức của chiêu thì dù khổ công tập luyện đến đâu cũng chẳng đạt hết cái tinh hoa sở học trong bản môn, cái tinh hoa của môn Tiên Thiên Vô Cực. Trong cái vô ý vô hình biến sanh biết bao chi hữu ý hữu hình, rồi gôm tụ những cái hữu ý, hữu tình đó trả về vô ý vô hình, có khác nào từ nơi hỗn tạp của thế giới trở lại cái chân lý? Chân lý phát sanh vô cùng hình ý, nhưng phát sanh quá nhiều thành hỗn tạp, trong cái hỗn tạp đó, người hưởng dụng khó chọn lựa thích hợp nên cuối cùng lại mơ hồ, đi dần đến thất bại. Do đó, thiên về hình thức là cố chấp, còn cố chấp là mơ hồ, dễ thất bại, chưa đạt được tinh hoa. Thấy được chân lý là đạt được tinh hoa của kiếm pháp. Lúc giao đấu không cần có chiêu thức mà tự nhiên chiêu thức cũng phát sanh, từ chỗ vô ý vô hình, từ chỗ chân lý xử dụng rồi là trở về nơi chỗ phát sanh. Không thể học từ chiêu thức mà phải đạt cái tinh hoa. Đạt được tinh hoa là nắm được đao kiếm vậy!...
Bây giờ lão nhân vẽ cái hồn tức là vẽ cái vô, từ cái vô mà thấy cái hữu!
Họa đạo và kiếm đạo tương đồng!
Chàng tỉnh ngộ.
Bẻ một cành cây, tượng trưng cho kiếm, chàng đâm ra một nhát.
Cái ý của chàng tưởng là thi triển Tiên Thiên Vô Cực kiếm pháp, và áp dụng chiêu Tiên Thiên Vô Biên. Nhưng nhát kiếm pháp xuất lại không đúng theo cái thế của chiêu Tiên Thiên Vô Biên.
Không đúng hình thức của chiêu Tiên Thiên Vô Biên, nhát kiếm vẫn bao hàm cái ảo diệu của chiêu Tiên Thiên Vô Biên, hay đúng hơn chiêu kiếm phát huy trọn vẹn cái hồn của chiêu Tiên Thiên Vô Biên.
Mà phát huy được như vậy, là do nơi ý chàng hơn là do kiếm pháp.
Bất giác chàng reo lên :
- Ta nghĩ ra rồi! Ta nghĩ ra rồi!
Bỗng một giọng nói trong trẻo vang lên :
- Ngươi nghĩ ra điều chi?
Câu nói buông dứt, Cơ Linh Yến đã đến bên cạnh chàng.
Du Bội Ngọc mỉm cười :
- Tại hạ nghĩ ra việc gì, lũ chim chóc kia chưa tường thuật lại cho cô nương biết sao?
Cơ Linh Yến vội ngưng thần, lắng tai nghe chim chóc líu lo trên cành.
Một lúc lâu nàng thốt :
- Chúng chẳng hiểu ngươi đã nghĩ ra chuyện gì, nhưng chúng cho biết là ngươi có vẻ điên cuồng đó!
Du Bội Ngọc cười lớn :
- Chúng làm sao hiểu được tại hạ nghĩ ra việc gì? Cô nương cứ bảo chúng, giá như chúng hiểu được tại hạ nghĩ ra việc gì, thì chúng sẽ chẳng còn sợ lão ưng nữa.
Đừng nói là lão ưng, dù là người chúng cũng chẳng ngán!
Cơ Linh Yến cười nhẹ :
- Ngươi nghe kìa, chúng đang nghị luận về lời nói của ngươi đó! Chúng bảo với nhau rằng ngươi nói đúng, chúng cho rằng lão ưng không đáng sợ, chúng sợ nhất là loài người!
Du Bội Ngọc không cười nữa.
Chàng nhìn về vùng cây nơi khu rừng gần đó, trong màn sương tan dần, từng đàn chim bay liệng, chàng động niềm cảm khái, thở dài :
- Chúng có lý! Loài người đáng sợ nhất! Chúng là chim mà còn biết cái đạo lý đó, còn loài người?... Loài người lại chẳng hiểu loài người đáng sợ nhất, loài người cứ tưởng mình đáng yêu nhất, là một gương mẫu trong muôn loài!
Cơ Linh Yến cũng thở dài :
- Ngươi xem kìa, sẽ có một con chim từ trong thành bay ra, nó nói dù con người dù biết được cái đạo lý đó, con người cũng chẳng bao giờ thừa nhận! Vĩnh viễn chẳng bao giờ thừa nhận!
X Chàng và nàng trở lại khách sạn.
Cơ Linh Yến còn muốn ngủ thêm một lúc nữa, mà Du Bội Ngọc thì thức trắng đêm đang muốn làm một giấc lấy lại sức. Họ xô cửa phòng, chưa bước vào liền khựng lại đó.
Trên chiếc giường của họ có một người đang ngồi xếp bằng tròn.
Ánh nắng ban mai xuyên qua cửa sổ, rọi ngay mặt người đó, rọi gương mặt đỏ hồng, chiếc đầu nhẵn bóng chẳng còn một sợi tóc nào cả.
Tuổi y thì cao mà sắc diện thì trẻ, con người giữ được phong thái đó hẳn phải quắc thước lắm.
Y không phải là người xa lạ gì đối với Du Bội Ngọc, y là tay xử dụng ám khí tinh diệu nhất trên giang hồ, sinh quán tại Tứ Xuyên, họ Đường tên Vô Song, chưởng môn nhân Đường môn, một môn phái lừng danh về dụng độc.
Y nhắm mắt, quanh mình bày la liệt hơn hai mươi loại ám khí, ngời màu đen.
Màu đen bóng nhoáng đó chẳng phải trọn vẹn là màu thép mà chính là màu của độc dược bôi bên ngoài.
Lão không đến đây đơn độc.
Còn hai người nữa đứng cạnh lão, một bên tả, một bên hữu, cả hai cùng vận y phục chẽn màu đen. Chiếc khăn vấn đầu và vuông vải che mặt đã cởi ra, đặt trên giường.
Du Bội Ngọc nhận ra ngay hai người đó.
Họ là Vương Vũ Lâu và Tây Môn Vô Cốt, đã hai lần tìm cách ám hại chàng từ lúc chàng rời khỏi vườn hoa của Hải Đường phu nhân.
Chàng thở một hơi dài trong không khí, đưa tay chận Cơ Linh Yến lại bên ngoài, điểm nhẹ thêm một nụ cười thốt :
- Hân hạnh thay! Một căn phòng đơn giản trong phút chốc trở nên huy hoàng với sự hiện diện của các vị thượng tân!
Đường Vô Song mở mắt ra nhìn chàng, ánh mắt lão chớp lên mấy lượt, đoạn trầm giọng hỏi, song chẳng phải hỏi chàng mà là hỏi hai người cạnh lão :
- Có phải hắn chăng?
Vương Vũ Lâu cung kính đáp :
- Chính hắn!
Đường Vô Song gật gù :
- Tốt! Để lão phu thử xem!
Tiếng cuối của câu nói vừa buông dứt, bàn tay tả may động, lão bắn năm ngón tay ra, năm mũi xoa bên cạnh lao vụt tới.
Đồng thời, lão vẫy bàn tay hữu, rồi kế tiếp quét nhẹ đôi chân, mười năm ngón ám khí nữa bay theo năm món trước.
Còn lại bảy món ám khí trên giường, lão chu miệng thổi một hơi, bảy mũi đó cũng bay đi luôn.
Phát xuất ám khí được như lão, kể ra trên giang hồ tìm một người thứ hai hẳn khó như tìm một mũi kim dưới lòng biển sâu.
Mà mũi kim thì ít nhất cũng biết được là nó nằm dưới lòng biển, chỉ khó tìm đó thôi, chứ tìm một người thứ hai phóng ám khí như lão làm gì có mà tìm.
Phóng bằng tay, phóng bằng chân, phóng bằng hơi thổi, rất có thể lão phóng cả bằng đầu, bằng cánh chỏ cũng được như thường.
Trong chớp mắt, số ám khí trên giường được phóng đi tất cả.
Ám khí có nhiều loại, tất nhiên hình thể bất đồng, trọng lượng cũng bất đồng, trong vũ lâm, một người thích xử dụng ám khí, bất quá chỉ chuyên luyện vài ba món là cùng, nhưng đối với lão thì món nào cũng như món nào, lão xử dụng dễ dàng phóng nhanh, phóng chuẩn, phóng mạnh như nhau.
Hay hơn nữa là phóng cùng một lúc như vậy, lão muốn món nào đi nhanh, món nào đi chậm tùy ý của lão. Lại có thứ đi thẳng, có thứ đi vòng quanh, có thứ uốn vòng cầu, có thứ từ dưới móc câu lên.
Từ ngày đặt chân lên giang hồ, Du Bội Ngọc từng gặp rất nhiều cường địch, song chưa có một địch thủ nào xử dụng hàng loạt ám khí bất đồng như thế!
Tay chàng còn cầm nhánh cây tượng trưng thanh kiếm mà vừa rồi chàng thực hiện chiêu Tiên Thiên Vô Biên.
Đêm càng về khuya, trăng càng lạnh, sao càng thưa.
Nơi phương đông, màu trời dần dần trắng.
Du Bội Ngọc vẫn còn đi tới đi lui bên ngoài trời, đi như kẻ điên dại, đi không hồn, không tư tưởng.
Chàng đi tới đi lui mãi, bất giác đêm sắp tàn, ngày sắp về mà chàng chẳng hay biết.
Sương rơi lúc đêm tàn phải nặng hạt, sương làm rơi rụng những chiếc lá vàng còn luyến tiếc cành cây chưa vội buông mình, lá rụng mang theo sương lạnh, lá và sương rơi trên mình chàng, gieo cái lạnh cuối cùng trên thân xác chàng trước khi thái dương về sưởi ấm lại.
Đột nhiên một bóng người từ xa chạy đến, bóng đó nhỏ ốm, tóc bạc trắng, gương mặt điểm xuyết một nụ cười bí hiểm.
Người đó không lạ gì đối với Du Bội Ngọc, song điều làm chàng kinh ngạc là sự hiện diện của người đó tại đây, trong phút giây này.
Lão ta cầm trong tay một bức họa đồ, lão đưa bức họa đồ ra trước mặt Du Bội Ngọc, cười mấy tiếng rồi hỏi :
- Ngươi xem đi, xem rồi cho ta biết là ngươi có hiểu ta vẽ những gì hay chăng?
Bức họa phô bày những nét vẽ hỗn độn, núi chẳng ra núi, mây chẳng ra mây, nhìn kỹ một chút lại thấy như một lọ mực đổ lên giấy, chỗ đậm, chỗ lợt, chỗ ngắn, chỗ dài, những đường thẳng, gãy, tròn, những đốm tạo thành một bức họa danh, bởi nó chẳng tượng trưng cái gì cả.
Du Bội Ngọc lắc đầu :
- Chịu thôi! Chẳng làm sao nhận nổi hình gì với hình gì!
Lão nhân thốt :
- Bức họa này ghi nhận hình núi phía trước mặt ngươi đó. Ta không hiểu tại sao ngươi không nhận ra!
Du Bội Ngọc nhìn ra trước mắt, qua màn sương mờ mờ, rồi nhìn trở lại bức họa, chàng mường tượng thấy có chỗ giống nhau, vụt cười lên một tiếng :
- Giờ thì thấy rồi!
Lão nhân bỗng bật cười cuồng dại.
Du Bội Ngọc nhìn lão, thấy lão cười bằng thích , cười múa tay động chân, người ngửa nghiêng mình, mắt cũng cười, mũi cũng cười.
Toàn thân lão, lúc cười, bốc lên một vẻ ngụy dị, kỳ bí vô tưởng.
Chàng lấy làm lạ hỏi :
- Cười chi mà tợn thế?
Lão nhân vỗ tay reo lên :
- Ta cười vì ta vui! Ta cười vì ta thành công!
Du Bội Ngọc lấy làm lạ :
- Lão trượng thành công về việc gì?
Lão nhân tiếp :
- Ta được một siêu phẩm! Bức họa này là một siêu phẩm của ta!
Du Bội Ngọc nhìn xuống bức họa, nhếch miệng cười khổ :
- Một bức họa như thế này, lão trượng cho là một siêu phẩm?
Lão nhân gật đầu :
- Ý ta muốn vẽ ra núi, nhưng ta không vẽ thành núi, ta không vẽ thành núi mà người vẫn nhìn ra núi, như vậy là tài tình lắm rồi, bởi ta không vẽ nên hình, vẽ nên hình thức rõ ràng là một việc dễ làm! Bất cứ một họa sĩ nào cũng vẽ được. Ta không vẽ núi, ta chỉ vẽ nên hồn núi. Trên thế gian này, có ai vẽ được cái hồn của sự vật không? Ta vẽ được cái hồn của núi là bức họa của ta phải là một siêu phẩm rồi!
Du Bội Ngọc lẩm nhẩm :
- Chỉ sợ cái hồn núi trong bức họa này rất ít người trông thấy được!
Lão nhân lại vỗ tay :
- Cần gì có kẻ thấy được? Cần gì có kẻ hiểu được? Ta muốn vẽ núi, dù cái hình của ta vẽ ra không phải là núi, song con mắt ta thấy như núi, cái tâm ta tưởng như núi, ta hiểu, mà người khác không hiểu nổi như ta, thế là tuyệt lắm rồi! Tuyệt diệu lắm rồi!
Lão lại cười vang, cười rồi vỗ tay, vỗ tay rồi cười. Lão càng cao hứng, Du Bội Ngọc càng sững sờ. Lão bỏ đi luôn.
Chàng như nghe Du Phóng Hạc thốt văng vẳng bên tai dù lời nói của Du Phóng Hạc đã qua lâu, lâu lắm rồi :
- Kiếm pháp mà quá câu chấp về hình thức của chiêu thì dù khổ công tập luyện đến đâu cũng chẳng đạt hết cái tinh hoa sở học trong bản môn, cái tinh hoa của môn Tiên Thiên Vô Cực. Trong cái vô ý vô hình biến sanh biết bao chi hữu ý hữu hình, rồi gôm tụ những cái hữu ý, hữu tình đó trả về vô ý vô hình, có khác nào từ nơi hỗn tạp của thế giới trở lại cái chân lý? Chân lý phát sanh vô cùng hình ý, nhưng phát sanh quá nhiều thành hỗn tạp, trong cái hỗn tạp đó, người hưởng dụng khó chọn lựa thích hợp nên cuối cùng lại mơ hồ, đi dần đến thất bại. Do đó, thiên về hình thức là cố chấp, còn cố chấp là mơ hồ, dễ thất bại, chưa đạt được tinh hoa. Thấy được chân lý là đạt được tinh hoa của kiếm pháp. Lúc giao đấu không cần có chiêu thức mà tự nhiên chiêu thức cũng phát sanh, từ chỗ vô ý vô hình, từ chỗ chân lý xử dụng rồi là trở về nơi chỗ phát sanh. Không thể học từ chiêu thức mà phải đạt cái tinh hoa. Đạt được tinh hoa là nắm được đao kiếm vậy!...
Bây giờ lão nhân vẽ cái hồn tức là vẽ cái vô, từ cái vô mà thấy cái hữu!
Họa đạo và kiếm đạo tương đồng!
Chàng tỉnh ngộ.
Bẻ một cành cây, tượng trưng cho kiếm, chàng đâm ra một nhát.
Cái ý của chàng tưởng là thi triển Tiên Thiên Vô Cực kiếm pháp, và áp dụng chiêu Tiên Thiên Vô Biên. Nhưng nhát kiếm pháp xuất lại không đúng theo cái thế của chiêu Tiên Thiên Vô Biên.
Không đúng hình thức của chiêu Tiên Thiên Vô Biên, nhát kiếm vẫn bao hàm cái ảo diệu của chiêu Tiên Thiên Vô Biên, hay đúng hơn chiêu kiếm phát huy trọn vẹn cái hồn của chiêu Tiên Thiên Vô Biên.
Mà phát huy được như vậy, là do nơi ý chàng hơn là do kiếm pháp.
Bất giác chàng reo lên :
- Ta nghĩ ra rồi! Ta nghĩ ra rồi!
Bỗng một giọng nói trong trẻo vang lên :
- Ngươi nghĩ ra điều chi?
Câu nói buông dứt, Cơ Linh Yến đã đến bên cạnh chàng.
Du Bội Ngọc mỉm cười :
- Tại hạ nghĩ ra việc gì, lũ chim chóc kia chưa tường thuật lại cho cô nương biết sao?
Cơ Linh Yến vội ngưng thần, lắng tai nghe chim chóc líu lo trên cành.
Một lúc lâu nàng thốt :
- Chúng chẳng hiểu ngươi đã nghĩ ra chuyện gì, nhưng chúng cho biết là ngươi có vẻ điên cuồng đó!
Du Bội Ngọc cười lớn :
- Chúng làm sao hiểu được tại hạ nghĩ ra việc gì? Cô nương cứ bảo chúng, giá như chúng hiểu được tại hạ nghĩ ra việc gì, thì chúng sẽ chẳng còn sợ lão ưng nữa.
Đừng nói là lão ưng, dù là người chúng cũng chẳng ngán!
Cơ Linh Yến cười nhẹ :
- Ngươi nghe kìa, chúng đang nghị luận về lời nói của ngươi đó! Chúng bảo với nhau rằng ngươi nói đúng, chúng cho rằng lão ưng không đáng sợ, chúng sợ nhất là loài người!
Du Bội Ngọc không cười nữa.
Chàng nhìn về vùng cây nơi khu rừng gần đó, trong màn sương tan dần, từng đàn chim bay liệng, chàng động niềm cảm khái, thở dài :
- Chúng có lý! Loài người đáng sợ nhất! Chúng là chim mà còn biết cái đạo lý đó, còn loài người?... Loài người lại chẳng hiểu loài người đáng sợ nhất, loài người cứ tưởng mình đáng yêu nhất, là một gương mẫu trong muôn loài!
Cơ Linh Yến cũng thở dài :
- Ngươi xem kìa, sẽ có một con chim từ trong thành bay ra, nó nói dù con người dù biết được cái đạo lý đó, con người cũng chẳng bao giờ thừa nhận! Vĩnh viễn chẳng bao giờ thừa nhận!
X Chàng và nàng trở lại khách sạn.
Cơ Linh Yến còn muốn ngủ thêm một lúc nữa, mà Du Bội Ngọc thì thức trắng đêm đang muốn làm một giấc lấy lại sức. Họ xô cửa phòng, chưa bước vào liền khựng lại đó.
Trên chiếc giường của họ có một người đang ngồi xếp bằng tròn.
Ánh nắng ban mai xuyên qua cửa sổ, rọi ngay mặt người đó, rọi gương mặt đỏ hồng, chiếc đầu nhẵn bóng chẳng còn một sợi tóc nào cả.
Tuổi y thì cao mà sắc diện thì trẻ, con người giữ được phong thái đó hẳn phải quắc thước lắm.
Y không phải là người xa lạ gì đối với Du Bội Ngọc, y là tay xử dụng ám khí tinh diệu nhất trên giang hồ, sinh quán tại Tứ Xuyên, họ Đường tên Vô Song, chưởng môn nhân Đường môn, một môn phái lừng danh về dụng độc.
Y nhắm mắt, quanh mình bày la liệt hơn hai mươi loại ám khí, ngời màu đen.
Màu đen bóng nhoáng đó chẳng phải trọn vẹn là màu thép mà chính là màu của độc dược bôi bên ngoài.
Lão không đến đây đơn độc.
Còn hai người nữa đứng cạnh lão, một bên tả, một bên hữu, cả hai cùng vận y phục chẽn màu đen. Chiếc khăn vấn đầu và vuông vải che mặt đã cởi ra, đặt trên giường.
Du Bội Ngọc nhận ra ngay hai người đó.
Họ là Vương Vũ Lâu và Tây Môn Vô Cốt, đã hai lần tìm cách ám hại chàng từ lúc chàng rời khỏi vườn hoa của Hải Đường phu nhân.
Chàng thở một hơi dài trong không khí, đưa tay chận Cơ Linh Yến lại bên ngoài, điểm nhẹ thêm một nụ cười thốt :
- Hân hạnh thay! Một căn phòng đơn giản trong phút chốc trở nên huy hoàng với sự hiện diện của các vị thượng tân!
Đường Vô Song mở mắt ra nhìn chàng, ánh mắt lão chớp lên mấy lượt, đoạn trầm giọng hỏi, song chẳng phải hỏi chàng mà là hỏi hai người cạnh lão :
- Có phải hắn chăng?
Vương Vũ Lâu cung kính đáp :
- Chính hắn!
Đường Vô Song gật gù :
- Tốt! Để lão phu thử xem!
Tiếng cuối của câu nói vừa buông dứt, bàn tay tả may động, lão bắn năm ngón tay ra, năm mũi xoa bên cạnh lao vụt tới.
Đồng thời, lão vẫy bàn tay hữu, rồi kế tiếp quét nhẹ đôi chân, mười năm ngón ám khí nữa bay theo năm món trước.
Còn lại bảy món ám khí trên giường, lão chu miệng thổi một hơi, bảy mũi đó cũng bay đi luôn.
Phát xuất ám khí được như lão, kể ra trên giang hồ tìm một người thứ hai hẳn khó như tìm một mũi kim dưới lòng biển sâu.
Mà mũi kim thì ít nhất cũng biết được là nó nằm dưới lòng biển, chỉ khó tìm đó thôi, chứ tìm một người thứ hai phóng ám khí như lão làm gì có mà tìm.
Phóng bằng tay, phóng bằng chân, phóng bằng hơi thổi, rất có thể lão phóng cả bằng đầu, bằng cánh chỏ cũng được như thường.
Trong chớp mắt, số ám khí trên giường được phóng đi tất cả.
Ám khí có nhiều loại, tất nhiên hình thể bất đồng, trọng lượng cũng bất đồng, trong vũ lâm, một người thích xử dụng ám khí, bất quá chỉ chuyên luyện vài ba món là cùng, nhưng đối với lão thì món nào cũng như món nào, lão xử dụng dễ dàng phóng nhanh, phóng chuẩn, phóng mạnh như nhau.
Hay hơn nữa là phóng cùng một lúc như vậy, lão muốn món nào đi nhanh, món nào đi chậm tùy ý của lão. Lại có thứ đi thẳng, có thứ đi vòng quanh, có thứ uốn vòng cầu, có thứ từ dưới móc câu lên.
Từ ngày đặt chân lên giang hồ, Du Bội Ngọc từng gặp rất nhiều cường địch, song chưa có một địch thủ nào xử dụng hàng loạt ám khí bất đồng như thế!
Tay chàng còn cầm nhánh cây tượng trưng thanh kiếm mà vừa rồi chàng thực hiện chiêu Tiên Thiên Vô Biên.